Thứ Tư, 21 tháng 7, 2010

KINH A DI ĐÀ

Lời mở đầu

 
[1] Ta nghe như vầy: Một thuở nọ Đức Phật ở nơi vườn Kỳ Thọ, cấp Cô Độc nước Xá-Vệ, cùng với một nghìn hai trăm năm mươi vị đại Tỳ kheo câu hội: đều là bậc A La Hán mọi người đều quen biết, như là: Trưởng lão Xá-Lợi-Phất, Đại Mục-Kiền-Liên, Đại Ca-Diếp, Ma-Ha Ca-Chiên-Diên, Ma-Ha Câu-Hy-La, Ly-Bà-Đa, Châu-Lợi-Bàn-Đà-Già, Nan-Đà, A-Nan-Đà, La-Hầu-La, Kiều-Phạm-Ba-Đề, Tân Đầu-Lư-Phả-La-Đọa, Ca-Lưu-Đà-Di, Ma-Ha Kiếp Tân Na, Bạc-Câu-La, A-Nâu-Lầu-Đà, những vị đại đệ tử như thế. Và hàng Đại Bồ Tát, Văn-Thù-Sư-Lợi: Pháp-Vương-Tử, A-Dật-Đa Bồ Tát, Càn-Đà-Ha-Đề Bồ Tát, Thường-Tinh-Tấn Bồ tát... cùng với các vị Đại Bồ tát như thế và với vô lượng chư Thiên như ông Thích-Đề-Hoàn-Nhơn..v..v.. đại chúng cùng đến dự hội.

 

 
Đức PHẬT Thích-Ca Mâu-Ni đang thuyết pháp đến các đại Tỳ kheo, các Đại Bồ Tát, vô lượng chư Thiên và Phật tử.

 

 
Đức PHẬT bảo ngài Trưởng lão Xá-Lợi-Phất
 

  #2  
 

 
(2)

 
ĐỨC PHẬT A-DI ĐÀ và THẾ GIỚI CỰC LẠC


[
2] Bấy giờ đức Phật bảo ngài Trưởng lão Xá-Lợi-Phất rằng: "Từ đây qua phương Tây quá mười muôn ức cõi Phật, có thế giới tên là Cực Lạc, trong thế giới đó có đức Phật hiệu là A Di Đà hiện nay đương nói pháp. 


 

Thế giới Cực Lạc do ĐỨC PHẬT A-DI-ĐÀ làm chủ

 

Đức PHẬT A-DI ĐÀ

  #3  
 


(3)

 
Cõi đó vì sao tên là Cực-Lạc?

[3] Xá Lợi Phất! Cõi đó vì sao tên là Cực lạc? Vì chúng sanh trong cõi đó không có bị những sự khổ, chỉ hưởng những điều vui, nên nước đó tên là Cực Lạc. 

Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc có bảy từng bao lơn, bảy từng mành lưới, bảy từng hàng cây, đều bằng bốn chất báu bao bọc giáp vòng, vì thế nên nước đó tên là Cực Lạc. 

Xá Lợi Phất! Lại trong cõi Cực Lạc có ao bằng bảy chất báu, trong ao đầy dẫy nước đủ tám công đức, đáy ao thuần dùng cát vàng trải làm đất. Vàng bạc, lưu ly, pha lê hiệp thành những thềm, đường ở bốn bên ao; trên thềm đường có lầu gác cũng đều nghiêm sức bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não. 

Trong ao có hoa sen lớn như bánh xe: hoa sắc xanh thời ánh sáng xanh, sắc vàng thời ánh sáng vàng, sắc đỏ thời ánh sáng đỏ, sắc trắng thời ánh sánh trắng, mầu nhiệm thơm tho trong sạch. 

Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.


 

 
Bảy từng bao lơn, bảy từng mành lưới, bảy từng hàng cây, đều bằng bốn chất báu bao bọc giáp vòng


 

 
Ao bằng bảy chất báu với hoa sen nhiều màu

Xá Lợi Phất! Lại trong cõi nước của đức Phật đó, thường trổi nhạc trời, đất bằng vàng ròng, ngày đêm sáu thời rưới hoa trời mạn đà la. Chúng sanh trong cõi đó thường vào lúc sáng sớm, đều lấy đãy hoa đựng những hoa tốt đem cúng dường mười muôn ức đức Phật ở phương khác, đến giờ ăn liền trở về bổn quốc ăn cơm xong đi kinh hành. 
Xá Lợi Phất! Cõi nước Cực Lạc thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy. 


 


Hoa và nhạc cõi Trời

Lại nữa, Xá-Lợi-Phất! Cõi đó thường có những giống chim mầu sắc xinh đẹp lạ thường, nào chim Bạch hạc, Khổng-tước, Anh-võ, Xá-lợi, Ca-lăng-tần-già, Cọng-mạng; những giống chim đó ngày đêm sáu thời kêu tiếng hòa nhã. 
Tiếng chim đó diễn nói những pháp như ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần, bát thánh đạo phần..v..v.. Chúng sanh trong cõi đó nghe tiếng chim xong thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng! 
Xá-Lợi-Phất! Ông chớ cho rằng những giống chim đó thiệt là do tội báo sanh ra. Vì sao? Vì cõi của đức Phật đó không có ba đường dữ.
Xá-Lợi-Phất! Cõi của đức Phật đó tên đường dữ còn không có huống gì lại có sự thật. Những giống chim đó là do đức Phật A Di Đà muốn làm cho tiếng pháp được tuyên lưu mà biến hóa làm ra đấy thôi. 
Xá-Lợi-Phất! Trong cõi nước của đức Phật đó, gió nhẹ thổi động các hàng cây báu và động mành lưới báu, làm vang ra tiếng vi diệu, thí như trăm nghìn thứ nhạc đồng một lúc hòa chung. Người nào nghe tiếng đó tự nhiên đều sanh lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
Xá-Lợi-Phất! Cõi nước của đức Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.


 
Những giống chim đẹp và hiếm

  #4  
Cũ 06-07-2007, 06:01 PM


(4-5)


 
Đức PHẬT đó vì sao hiệu là A-DI-ĐÀ?

[4] Xá-Lợi-Phất! Nơi ý ông nghĩ sao? Đức Phật đó vì sao hiệu là A Di Đà?

Xá-Lợi-Phất! Đức Phật đó, hào quang sáng chói vô lượng, soi suốt các cõi nước trong mười phương không bị chướng ngại vì thế nên hiệu là A Di Đà. 

Xá-Lợi-Phất! Đức Phật đó và nhân dân của Ngài sống lâu vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp, nên hiệu là A Di Đà. 

Xá-Lợi-Phất! Đức Phật A Di Đà thành Phật nhẫn nại đến nay, đã được mười kiếp. 

Xá-Lợi-Phất! Lại đức Phật đó có vô lượng vô biên Thanh Văn đệ tử đều là bực A La Hán, chẳng phải tính đếm mà có thể biết được, hàng Bồ tát chúng cũng đông như thế. 

Xá-Lợi-Phất! Cõi nước của đức Phật đó thành tựu công đức trang nghiêm dường ấy.


 

 
Đức PHẬT A-Di-Đà và nhân-dân của Ngài sống lâu vô-lượng vô-biên a-tăng-kỳ kiếp

 

 
Những ai được sanh về cõi Cực-Lạc sẽ gặp chư Thánh và chư Bồ-Tát


 
Tại sao chúng sanh nên phải phát nguyện cầu sanh về nước đó ?

[5] Xá-Lợi-Phất! Lại trong cõi cực lạc, những chúng sanh vãng sanh vào đó đều là bực bất thối chuyển. 

Trong đó có rất nhiều vị bực nhất sanh bổ xứ, số đó rất đông, chẳng phải tính đếm mà biết được, chỉ có thể dùng số vô lượng vô biên a-tăng-kỳ để nói thôi! 

Xá-Lợi-Phất! Chúng sanh nào nghe những điều trên đây, nên phải phát nguyện cầu sanh về nước đó. Vì sao? Vì đặng cùng với các bậc Thượng thiện nhơn như thế câu hội một chỗ. 

Xá-Lợi-Phất! Chẳng có thể dùng chút ít thiện căn phước đức nhơn duyên mà được sanh về cõi đó. 

Xá-Lợi-Phất! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe nói đức Phật A Di Đà, rồi chấp trì danh hiệu của đức Phật đó, hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bẩy ngày, một lòng không tạp loạn. Thời người đó đến lúc lâm chung đức Phật A Di Đà cùng hàng Thánh Chúng hiện thân ở trước người đó. Người đó lúc chết tâm thần không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi nước Cực Lạc của đức Phật A Di Đà. 
Xá-Lợi-Phất! Ta thấy có sự lợi ích ấy nên nói những lời như thế. 

Nếu có chúng sinh nào, nghe những lời trên đó, nên phải phát nguyện sanh về cõi nước Cực Lạc. 

 
Đức PHẬT A-DI-ĐÀ, chư Bồ-Tát và chư Thánh đón chào hành-giả niệm PHẬT
 

  #5  
 

 
(6-8)


 
Các Đức PHẬT ở phương Đông ngợi khen công đức của Đức PHẬT A-Di-Đà

 
[6] Xá-Lợi-Phất! Như Ta hôm nay ngợi khen công đức lợi ích chẳng thể nghĩ bàn của đức Phật A Di Đà, phương Đông cũng có đức A-Súc-Bệ-Phật, Tu-Di-Tướng Phật, Đại-Tu-Di Phật, Tu-Di-Quang Phật, Diệu-Âm Phật; Hằng hà sa số những đức Phật như thế đều ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi Tam thiên Đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này".


 

 
Chư PHẬT ở phương Đông


 
Các Đức PHẬT ở phương Nam ngợi khen công đức của Đức PHẬT A-Di-Đà

 
[7] Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương Nam, có đức Nhật- Nguyệt-Đăng Phật, Danh-Văn-Quang Phật, Đại-Diệm-Kiên Phật, Tu Di-Đăng Phật, Vô-Lượng-Tinh-Tấn Phật... Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này".


 

 
Chư PHẬT ở phương Nam


 
Các Đức PHẬT ở phương Tây ngợi khen công đức của Đức PHẬT A-Di-Đà

 
(8)Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương Tây, có đức Vô Lượng-Thọ Phật, Vô-Lượng-Tướng Phật, Vô-Lượng-Tràng Phật, Đại Quang Phật, Đại-Minh Phật, Bửu-Tướng Phật, Tịnh-Quang Phật... Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này".


 
Chư PHẬT ở phương Tây

  #6  
 


(9-11)


 
Các Đức PHẬT ở phương Bắc ngợi khen công đức của Đức PHẬT A-Di-Đà

[9] Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương Bắc, có đức Diệm-Kiên-Phật, Tối-Thắng-Âm Phật, Nan-Trở Phật, Nhựt-Sanh Phật, Võng-Minh Phật... Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này"


 

 
Chư PHẬT ở phương Bắc


 
Các Đức PHẬT ở phương dưới ngợi khen công đức của Đức PHẬT A-Di-Đà

[10] Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương dưới, có đức Sư-Tử Phật, Danh-Văn Phật, Danh-Quang Phật, Đạt-Mạ Phật, Pháp-Tràng Phật, Trì-Pháp Phật... Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin Kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này".


 

 
Chư PHẬT ở phương dưới


 
Các Đức PHẬT ở phương trên ngợi khen công đức của Đức PHẬT A-Di-Đà

[11] Xá-Lợi-Phất! Thế giới phương trên, có đức Phạm-Âm Phật, Tú-Vương Phật, Hương-Thượng Phật, Hương-Quang Phật, Đại-Diệm-Kiên Phật, Tạp-Sắc Bửu-Hoa-Nghiêm-Thân Phật, Ta La-Thọ-Vương Phật, Bửu-Hoa Đức Phật, Kiến-Nhất-Thiết-Nghĩa Phật, Như-Tu-Di-Sơn Phật... Hằng hà sa số những đức Phật như thế, đều tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cõi tam thiên đại thiên mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sanh các ngươi phải nên tin Kinh: Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm Này".


 
Chư PHẬT ở phương trên
 

  #7  
 

 

(12-14)


 
Vì sao Kinh này có tên là Kinh Nhứt-Thiết Chư PHẬT Sở Hộ-Niệm?

[12] Xá-Lợi-Phất! Nơi ý của ông nghĩ thế nào, vì sao tên là Kinh: Nhứt-Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm? 

Xá-Lợi-Phất! Vì nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe kinh này mà thọ trì đó, và nghe danh hiệu của đức Phật, thời những thiện nam tử cùng thiện nữ nhân ấy đều được tất cả các đức Phật hộ niệm, đều được không thối chuyển nơi đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác.

Xá-Lợi-Phất! Cho nên các ông đều phải tin nhận lời của Ta và của các đức Phật nói. 

Xá-Lợi-Phất! Nếu có người đã phát nguyện, hiện nay phát nguyện, sẽ phát nguyện muốn sanh về cõi nước của đức Phật A Di Đà, thời những người ấy đều đặng không thối chuyển nơi đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác; nơi cõi nước kia, hoặc đã sanh về rồi, hoặc hiện nay sanh về, hoặc sẽ sanh về. 

Xá-Lợi-Phất! Cho nên các thiện nam tử thiện nữ nhân nếu người nào có lòng tin thời phải nên phát nguyện sanh về cõi nước kia.


 

 
Những việc làm công-đức và phước-đức được khuyến-khích để được sanh về Thế-giới Tây-Phương Cực-Lạc. (Nói chung là Tịnh-Nghiệp, cụ thể là tu-hành Thập Thiện (10 điều "nghiệp" lành) và tu-hành theo 10 hạnh lớn của Bồ-Tát Phổ-Hiền (Phổ-Hiền Hạnh-Nguyện), v.v… Tuy nhiên niệm-PHẬT vẫn là chính).


 
Chư PHẬT ngợi khen công-đức của Đức-PHẬT Thích-Ca Mâu-Ni

[13] Xá-Lợi-Phất! Như ta hôm nay ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của các đức Phật, các đức Phật đó cũng ngợi khen công đức chẳng thể nghĩ bàn của Ta mà nói lời nầy: "Đức Thích Ca Mâu Ni Phật hay làm được việc rất khó khăn hi hữu, có thể ở trong cõi Ta Bà đời ác năm món trược: kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, mạng trược trung, mà Ngài chứng được ngôi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, Ngài vì các chúng sanh nói kinh pháp mà tất cả thế gian khó tin này". Xá-Lợi-Phất! Phải biết rằng Ta ở trong đời ác ngũ trược thật hành việc khó này: đặng thành bậc Vô Thượng Chánh Giác và vì tất cả thế gian nói kinh pháp khó tin này, đó là rất khó!


 
Đoạn-kết

[14] Đức Phật nói kinh này rồi, ngài Xá-Lợi-Phất cùng các vị Tỳ kheo, tất cả trong đời: Trời, Người, A-Tu-La, v..v.. nghe lời của đức Phật dạy, đều vui mừng tin nhận đảnh lễ mà lui ra. Phật nói kinh A Di Đà.



 
-o0o-


 

 
Khi thuyết Pháp xong, Đức PHẬT Thích-Ca Mâu-Ni trở về cùng với Bồ-Tát Văn-Thù, Bồ-Tát Phổ-Hiền và các Ngài khác


 
Chấm-dứt bài Kinh A-Di-Đà được thuyết bởi Đức-PHẬT Thích-Ca Mâu-Ni.

Thứ Hai, 19 tháng 7, 2010

NHAP MON


Văn Phật sở thuyết, là nghe và hiểu những gì Phật đã nói. Hoan hỷ tín thọ, là vui mừng tin nhận những gì Phật đã dạy. Tác lễ, là đảnh lễ với lòng biết ơn và tôn kính, vì Phật đã thương xót trao dạy cho pháp nhiệm mầu. Nhi khứ, là đi lui ra, để hành trì pháp môn mà Phật đã ân cần khuyến dẫn, phát nguyện sanh về Tây phương Tịnh Độ. 

Văn Phật sở thuyết, là nhân của TRI. Hoan hỷ tín thọ, là nhân của TÍN. Hoan hỷ tín thọ và Tác lễ nhi khứ, là nhân của NGUYỆN. Tác lễ nhi khứ, là nhân của HẠNH. TRÍ là quả của TRI TÍN NGUYỆN HẠNH. Tất cả là 4 món tư lương "hiểu sâu, tin chắc, nguyện thiết, hành chuyên" rất cần thiết cho người niệm Phật, để dựa theo đó làm phương hướng tu trì, cảm thán ân đức của Phật đã vì chúng sanh mà nói pháp cứu độ nầy.

Phật đã nói pháp như thế, con đường đã được vạch sẵn như vậy, nếu có ai tin nhận thì hãy theo đó mà tu trì. Hãy tin với niềm tin thật vững chắc, khắc giữ vào trong tâm, tin như vậy mới là chân chánh tín thọ. 

Hãy xem việc niệm Phật là vấn đề KHẨN THIẾT NHẤT trong cuộc sống, bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào. Hãy xem việc niệm Phật là NIỀM VUI trên tất cả. Hãy đặt việc niệm Phật lên hàng đầu của tất cả mọi sự việc, trọn kiếp đời nầy và muôn nghìn kiếp về sau. Hãy buông bỏ vạn duyên bên ngoài và chỉ một lòng chuyên nhất trì niệm danh hiệu A Di Đà Phật. Hãy thành tâm niệm Phật và chỉ biết niệm Phật.


Theo thiền sư Thảo Am, bí quyết của việc niệm Phật là đặt chữ "CHẾT" trên ý niệm. Như thế, đối với cảnh duyên sẽ lạnh nhạt, tình ái cũng tự nhiên nhẹ bớt, danh lợi và bạc tiền trong phút giây nầy cũng đều vô dụng. Được như vậy, việc niệm Phật sẽ khẩn thiết và chân thành hơn.

Niềm tin Cực Lạc, câu Phật hiệu A Di Đà, Tứ Vô Lượng Tâm, Bát Chánh Đạo, Tứ Diệu Đế, Bồ Đề Tâm, Tứ Tư Lương - đấy là những hành trang công đức trí huệ diệu hạnh vô thượng mà đức Thế Tôn đã ân cần trao dạy, người niệm Phật phải nghiêm kính tin giữ và hành trì. 



Hãy cố gắng tinh tấn tu tập theo hạnh của Phật. Hãy kiên trì dũng mãnh học theo nguyện của Phật. Hãy nỗ lực chuyên cần thêm nữa, hãy ráng làm cho xong trong một đời nầy, giải thoát và thành Phật, vì mình, vì người, vì tất cả mọi loài...

Với sức mạnh Nhị Lực, đó là sự tinh tấn chấp trì danh hiệu Phật trong niềm tin vững chắc, cùng với tha lực hộ trì của tất cả chư Phật mười phương, người niệm Phật nhất định sẽ thành Phật. 

Trong kinh Niệm Phật Bát Nhã Ba La Mật, ngài đại Bồ Tát Phổ Hiền dạy rằng: "Danh hiệu Phật như hóa thân Phật bất tư nghì, vì luôn hiện thân Phật ngay nơi thân và tâm của người xưng niệm danh hiệu A Di Đà Phật."

Người niệm Phật phải luôn ghi nhớ lời cuối cùng của đức Thế Tôn đã nói, ở rừng cây Ta La, nơi ngôi làng hẻo lánh Kusinara, trước khi ngài nhập diệt: 

"Mọi vật ở đời không có gì quý giá, thân thể rồi sẽ tan rã, chỉ có Đạo là quý báu, chỉ có Chân Lý của Đạo ta là bất di bất dịch, hãy tinh tấn lên để giải thoát."



Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật



Yếu chỉ hành trì theo tinh thần lý nghĩa 


của Kinh Niệm Phật A Di Đà





Nam Mô A Di Đà Phật

Người niệm Phật, một khi đã quyết tâm thọ trì kinh A Di Đà, thì phải phát khởi tín tâm vững chắc, mở rộng niềm tin để nhận hiểu lời Phật dạy trên cả 2 mặt Lý và Sự. Nghĩa là phải tin chắc rằng có cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà ở phương Tây, tin có cõi Tịnh Độ nhiệm mầu trong tâm của người niệm Phật. Tin vào lý nhân quả, luật luân hồi và nghiệp báo. Giữ vững niềm tin thiết tha và kiên cố, tinh tấn chấp trì danh hiệu Phật trong tất cả mọi oai nghi, mọi thời lúc và ở bất cứ nơi nào.


Người niệm Phật, một khi đã quyết tâm thọ trì kinh A Di Đà, thì phải phát khởi 10 thứ tâm thù thắng, đó là Tín tâm, Thâm Trọng tâm, Hồi Hướng Phát Nguyện tâm, Xả Ly tâm, An Ổn tâm, Hộ Giới tâm, Đà Ra Ni tâm, Ba La Mật tâm, Bình Đẳng tâm, Phổ Hiền tâm. Người niệm Phật phải tu tạo công đức trí huệ và phẩm hạnh trên cả 2 phương diện Tịnh nghiệp và Thiện nghiệp: 


- Tịnh nghiệp (chánh hạnh) là giữ tâm ý cho thanh tịnh, bằng cách trì niệm câu Phật hiệu A Di Đà suốt đêm ngày 6 thời không xen tạp, không mong cầu. Khi trì niệm, lắng nghe cho phân minh từng mỗi tiếng niệm trong tâm. Người niệm Phật phải dựa vào phương cách lắng nghe và chú tâm như vậy, để chuyên nhất tâm tưởng và trì giữ chánh niệm. 


- Thiện nghiệp (trợ hạnh) là năng làm các điều lành, ngăn ngừa và trừ diệt những điều ác, luôn nắm giữ và thực hành Thập Thiện (10 điều lành) trên cả 3 bình diện Thân Khẩu Ý, tu tập hạnh từ bi, bố thí, buông xả, tha thứ, nhẫn nhục, phát khởi tâm Bồ Đề vô thượng, tu tập Bát Chánh Đạo, học hiểu Tứ Diệu Đế, thường xuyên sám hối lạy Phật và tu sửa tâm tánh, dũng mãnh tu tập theo hạnh của Phật, thực hành pháp Lục Độ Ba La Mật của Bồ Tát, tùy duyên đến với Người và giúp Người tìm về nẻo Chánh, không ngừng nghỉ tự độ và độ tha, nhận hiểu và tu tập theo 48 lời nguyện của đức Phật A Di Đà. 


Người niệm Phật, một khi đã quyết tâm thọ trì kinh A Di Đà, thì phải phát nguyện vãng sanh cõi Cực Lạc của đức Phật A Di Đà, và phải tín cẩn ôm giữ pháp môn nầy cho đến trọn đời. Phát nguyện phải chân thành, nghiêm kính và thiết tha, ghi nhận sâu xa những điều nguyện ước ấy trong lòng, ngày đêm tưởng niệm đến các cõi lành và các điều lành, có như vậy thì mới có thể cảm ứng được sự gia trì hộ niệm của chư Phật và chư vị Bồ Tát, tương ứng với bản hoài của đức Phật A Di Đà.


Người niệm Phật phải thành tâm niệm Phật và chỉ biết niệm Phật. Tín cẩn chấp trì như thế thì mới có thể chuyên nhất được tâm ý, dứt trừ mọi vọng tưởng điên đảo, cắt đứt vòng dây trói buộc của Vô Minh và Tham Ái. Trong kinh Niệm Phật Ba La Mật, Phật dạy: "Người niệm Phật chỉ buộc tâm và ý vào danh hiệu Phật, chăm chú lắng nghe, mỗi câu rõ ràng, mỗi niệm phân minh. Quên cả thân, quên cả cảnh, quên cả cái ý thức tự biết: Ta đang niệm Phật".


Người niệm Phật, một khi đã quyết tâm thọ trì kinh A Di Đà, thì phải trải rộng 4 thứ tâm vô lượng, một cách chân thật từ ở chính tự tâm, từ cõi lòng lân mẫn của chính mình, vào từng mỗi câu Phật hiệu A Di Đà, trên từng mỗi hành động, mỗi lời nói, cũng như tất cả những nghĩ suy trong tâm thức.



Mỗi một tiếng niệm A Di Đà, người niệm Phật phải trải rộng tâm Từ của mình đến tất cả mọi chúng sanh bình đẳng, trải tâm Bi đến những kẻ đang đau khổ, trải tâm Hỷ đến những ai đang vui sướng, trải tâm Xả đến những người mình yêu thích hoặc ghét bỏ. Câu Phật hiệu A Di Đà phải được khởi niệm một cách thiết tha từ trong tâm, chân thật, nghiêm cẩn và vững chắc, có như vậy thì mới có thể chuyên nhất được tâm tưởng, làm phương tiện diệu dụng 6 thời để trừ diệt tất cả mọi tà ý, dục niệm sinh khởi trong từng mỗi phút giây trong cuộc sống. Đó là thể hiện 4 đức tánh liên hoa: vi diệu hương khiết trong câu Phật hiệu A Di Đà.


Điều quan trọng của pháp niệm Phật là phải phát khởi tâm chân thành và khẩn thiết trong khi xưng niệm danh hiệu A Di Đà Phật. Theo thiền sư Thảo Am, bí quyết của việc niệm Phật là đặt chữ "CHẾT" trên ý niệm. Như thế, đối với cảnh duyên sẽ lạnh nhạt, tình ái cũng tự nhiên nhẹ bớt. Người niệm Phật phải chân thành hồi hướng tất cả công đức về Cực Lạc và Tam Bảo ở các cõi, cho cha mẹ 7 đời của mình và của người, cho anh em chúng sanh trong 7 kiếp, cho tất cả muôn loài hữu thể và vô thể trong 6 nẻo luân hồi. Người niệm Phật phải nhận hiểu: "Tất cả chúng sanh trên thế gian nầy đều có tánh Phật và là những vị Phật sẽ thành trong tương lai".


Yếu chỉ của công phu trì niệm danh hiệu A Di Đà là ở mấu chốt: "phản văn văn tự tánh" (theo tinh thần lý nghĩa của kinh Thủ Lăng Nghiêm). Nghĩa là người niệm Phật phải dùng tâm để lắng nghe tiếng niệm trong tâm, nghe cho rõ ràng và phân minh từng chữ một. Niệm từng chữ và phải chắc từng chữ, nghiêm mật trên từng mỗi câu niệm. Người niệm Phật phải hành trì cẩn thiết như thế thì mới có thể điều phục được tâm ý, dứt trừ mọi loạn tưởng, phát triển trí tuệ sáng suốt vô thượng, đạt đến sự thành tựu nhất hạnh tam muội, cảnh giới mầu nhiệm bất khả tư nghì của tự tánh tự niệm A Di Đà Vô Lượng Quang Vô Lượng Thọ. 

Nam Mô A Di Đà Phật



o0o


Nam Mô A Di Đà Phật





vườn Kỳ Đà Cấp Cô Độc Jetavana

nơi đức Phật Thích Ca đã thuyết giảng kinh A Di Đà


o0o

Chủ Nhật, 18 tháng 7, 2010

PHÁC HỌA NHÀ THỜ TỔ NGUYỄN " QUANG TÔNG DIỆU TỔ NGUYÊN ĐƯỜNG" NINH BÌNH TRONG TƯƠNG LAI GẦN



HỘI ĐỒNG
DÒNG HỌ NGUYỄN BẶC TOÀN QUỐC

Hôm nay 19 giờ ngày 09 tháng 11 năm 2011 (Tức ngày 14 tháng 10 năm Tân Mão) tại Khởi Nguyên Đường có các đại biểu đại diện cho các chi các họ thuộc các tỉnh từ Hà Nội - Nam Định - Hải Dương - Hà tây - Thanh Hóa - Nghệ An - Huế - Bình Phước - Đà Nẵng - Hải Phòng.
Đã thống nhất họp bàn một số việc quan trọng.
Chủ tọa Ông Nguyễn Văn Sở
Thư ký Ông Nguyễn Công Trứ
Sau nhiều năm các Cụ, các Ông, các Chi trong toàn quốc xét thấy Ban Liên Lạc hoạt động không hiệu quả và không đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của Dòng Họ nay hội nghị nhất trí có cuộc họp để bầu lại và đổi tên Ban Liên Lạc thành hội Đồng Dòng Tộc Nguyễn Bặc toàn quốc tại phiên họp đại diện các Chi, các Ngành đã thống nhất bầu Hội Đồng mới gồm các Ông, Bà có tên sau đây:
  1. Ông Thượng Tướng Nguyễn Huy Hiệu - Chủ Tịch danh dự
  2. Ông Nguyễn Văn Sở - Chủ Tịch Hội Đồng dòng tộc - Chi sở tại
  3. Ông Nguyễn Thành Công - Phó Chủ Tịch - Chi Xuân Trường
  4. Ông Nguyễn Quốc Rỉ - Phó Chủ Tịch - Chi sở tại
  5. Ông Nguyễn Xuân Trường - Phó Chủ Tịch Danh Dự - Danh nghiệp Xuân Trường
  6. Ông Nguyễn Công Trứ - Thư Ký Hội Đồng - Chi Xuân Trường
  7. Ông Nguyễn Phúc Hậu - Phố Núi Hưng Yên
  8. Ông Nguyễn Hồng Kỳ - Thành Phố Huế
  9. Ông Nguyễn Bảo Nam - Sài Gòn, Gia Hưng
  10. Ông Nguyễn Hữu Thoại - Chi Thanh Hóa
  11. Ông Mai Xuân Ninh - Nga Sơn, Thanh Hóa
  12. Ông Nguyễn Hữu Viễn - Chi Ý Yên
  13. Bà Nguyễn Hồng Nguyên - Chi Đông Tác, Hà Nội
  14. Ông Nguyễn Duy Đô - Chi Nam Đàn, Nghệ An
  15. Ông Nguyễn Xuân Hòa - Chi Hà Tĩnh
  16. Ông Nguyễn Hữu Lợi - Chi Hải Phòng
  17. Ông Nguyễn Hữu Thái - Chi Gia Miêu, Thanh Hóa
  18. Ông Nguyễn Minh Thiểm - Chi Nam Định
Các đại biểu tham dự buổi họp hôm nay đều vào phấn khởi khi đã lựa chọn những ông bà có tâm, có đức tham gia Hội Đồng Dòng Tộc Nguyễn Bặc toàn quốc sau khi Hội Đồng được bầu và đi vào hoạt động đề nghị của Dòng Tộc yêu cầu các ông bà trong Hội Đồng soạn thảo một văn bản gửi đến các chi trong Dòng Tộc Nguyễn Bặc toàn quốc nói rõ Ban Liên Lạc cũ đã dừng hoạt động từ hôm nay ngày 09 tháng 11 năm 2011 (Tức ngày 14 tháng 10 năm Tân Mão) và mọi hoạt động, ý kiến, công việc của ông Nguyễn Quang Hạ với Dòng Họ không có hiệu lực.
Sau khi đi vào hoạt động Hội Đồng sẽ phân công các Ban để đi vào hoạt đông.
Ban Hội Đồng mới có trách nhiệm thanh toán mọi tồn tại vói Ban Liên Lạc cũ và làm công tác bàn giao sổ sách, quỹ.
Hội Đồng mới soạn thảo Quy ước, nội quy , sinh hoạt, Hội Họp, cúng Giỗ v.v… để phù hợp với các hoạt động của Dòng Họ.
Phiên họp kết thúc lúc 19 giờ 50 phút cùng ngày.
Biên bản đã đọc cho mọi người cùng nghe và thống nhất 100%